1. Đặt vấn đề
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về Đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã xác định nhiệm vụ, giải pháp: “Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước (QLNN) về giáo dục, đào tạo và trách nhiệm quản lý theo ngành, lãnh thổ của các bộ, ngành, địa phương. Phân định công tác QLNN với quản trị của các cơ sở giáo dục và đào tạo (GD&ĐT). Đẩy mạnh phân cấp, nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở GD&ĐT”[1]. Đây là quan điểm chỉ đạo việc đổi mới công tác QLNN về GD&ĐT trong đó có yêu cầu đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước (PCQLNN) nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện GD&ĐT.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bao gồm 13 tỉnh/thành, có diện tích đất tự nhiên 39.739 km2 và dân số 17,2 triệu người. Đây là vùng đất trù phú, có vị trí địa lý thuận lợi, luôn được Đảng, Nhà nước xác định là vùng có vị trí chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng. Vùng ĐBSCL luôn đứng đầu cả nước về sản xuất và xuất khẩu gạo, thủy sản và trái cây; đứng thứ ba về tỷ trọng đóng góp GDP nhưng vẫn còn là “vùng trũng”, vùng khó khăn về giáo dục[11].
Trong những năm qua, các cơ quan quản lý nhà nước đã quan tâm và ban hành nhiều văn bản nhằm thúc đẩy giáo dục vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) phát triển với mục tiêu “ngang bằng chỉ số trung bình của cả nước vào năm 2010” và “đạt các chỉ số phát triển của các ngành học, bậc học trên mức bình quân chung của cả nước vào năm 2020” [14]. Tuy giáo dục vùng ĐBSCL đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại và chưa đạt được mục tiêu đề ra, đặc biệt là ở bậc học mầm non–bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, bậc học nền tảng quyết định đến sự hình thành nhân cách của con người sau này nhưng chất lượng giáo dục mầm non của vùng còn nhiều hạn chế. Đây là thách thức lớn của vùng ĐBSCL trong tiến trình phát triển cũng như trong thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Để đảm bảo hiệu lực và hiệu quả QLNN đối với GDMN cần có cách nhìn tổng quan, toàn diện về phương thức QLNN đối với GDMN, trong đó PCQLNN đối với GDMN là một phương thức quản lý đang được quan tâm hiện nay.
2. Nội dung
2.1. Phân cấp quản lý đối với giáo dục mầm non
2.1.1. Sự cần thiết phải phân cấp quản lý nước đối giáo dục mầm non
Xuất phát từ tính chất, đặc điểm hoạt động của cấp học MN, việc PCQLNN đối với cấp học này là cần thiết vì những lý do sau:
Một là, hoạt động của cấp học MN gồm giáo dục nhà trẻ và giáo dục mẫu giáo với đặc thù về đối tượng, nội dung, chương trình, tiêu chuẩn nuôi dạy trẻ, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện, đồ dùng dạy học, địa điểm hoạt động… nên không thể tiến hành quản lý chung như các cấp học khác, PCQL nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của cấp học này gắn hoạt động quản lý với đặc thù của đối tượng quản lý.
Hai là, việc PCQLNN giáo dục mầm non nhằm chuyển giao quyền hạn, thẩm quyền, trách nhiệm quản lý cho cơ quan chủ quản trực tiếp quản lý bậc học này nhằm đảm bảo hoạt động quản lý kịp thời, thuận lợi phục vụ và đáp ứng yêu cầu của đối tượng quản lý.
Ba là, PCQLNN đối với GDMN nhằm giúp cho chủ thể quản lý gần gủi, gắn bó, nắm bắt, giải quyết yêu cầu quyền lợi chính đáng của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động GDMN.
Bốn là, thực hiện việc PCQLNN nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về GDMN của cơ quan và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối với cơ sở GDMN.
Năm là, PCQLNN giáo dục chủ động thu hút, kêu gọi tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động GDMN, góp phần thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục.
2.1.2. Điều kiện để thực hiện việc phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục mầm non
Việc PCQLNN về giáo dục mầm non chỉ đạt hiệu quả và mục tiêu đề ra khi hội đủ các yêu cầu và điều kiện thực hiện sau:
- Về nhận thức: Cần đổi mới và nhận thức đúng bản chất của phân cấp từ hai phía cơ quan quản lý nhà nước cấp trên (cấp trao nhiệm vụ, quyền hạn, công việc) và cơ quan cấp dưới (nhận nhiệm vụ, quyền hạn, và thực thi công việc).
- Về năng lực: PCQLNN đòi hỏi cả hai cấp trao và nhận quyền đều phải có đầy đủ năng lực về nhận thức trong công tác quản lý, sử dụng quyền, trách nhiệm trong quản lý theo hướng cấp trên phải “giao quyền gắn với trách nhiệm, giao nhiệm vụ gắn với quyền hạn”.
- Về thể chế: Việc PCQLNN chỉ được tiến hành và hoạt động thuận lợi khi có hệ thống thể chế với các quy định cụ thể đầy đủ liên quan đến các nội dung, lĩnh vực quản lý nhà nước và nội dung lĩnh vực cần PCQL.
- Về thiết chế tổ chức: Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước được xây dựng, tổ chức ổn định, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền, trách nhiệm với cơ chế quản lý, phối hợp thông suốt, đồng bộ, trách nhiệm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho PCQL.
- Về đội ngũ và tinh thần trách nhiệm: Năng lực nhận thức, thực thi, tinh thần trách nhiệm trong công việc của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, công chức chuyên môn là yếu tố quyết định sự thành công của PCQLNN.
2.1.3. Nội dung phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục mầm non
Thực hiện phân cấp trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động GDMN cần tập trung vào các nhóm nội dung sau:
2.1.3.1. Nhóm nội dung về tổ chức bộ máy:
Một là, về thẩm quyền quản lý: xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục ở cấp trung ương với địa phương. Theo đó, cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục trung ương tập trung vào việc hoạch định, xây dựng chính sách, quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục trong đó có bậc mầm non. Cơ quan quản lý nhà nước địa phương xây dựng chiến lược, kế hoạch và thực thi chính sách giáo dục mầm non tại địa phương, khu vực trên cơ sở căn cứ chính sách, quy định và điều kiện đặt thù của địa phương, vùng, miền.
Hai là, hoàn thiện thiết chế tổ chức cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước về giáo dục: quy định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước về giáo dục ở trung ương và địa phương, cơ chế phối hợp, hướng dẫn trong công tác quản lý nhà nước về giáo dục bậc học mầm non.
Ba là, quy định khung về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý cơ sở giáo dục: Cơ quan quản lý nhà nước trung ương quy định khung cơ cấu tổ chức bộ máy cơ sở giáo dục theo từng loại hình, hạng trường, cơ sở giáo dục phải xây dựng và thiết kế cơ cấu tổ chức bộ máy của mình trình cơ quan quản lý nhà nước theo thẩm quyền phê duyệt nhằm đảm bảo cơ cấu tổ chức theo cơ cấu quy định đồng thời gắn với loại hình hoạt động của cơ sở giáo dục.
2.1.3.2. Nhóm nội dung quản lý nhân sự
Một là, về nhần sự của cơ quan quản lý nhà nước: quy định rõ định mức biên chế, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ theo vị trí việc làm trong cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục để cơ quan này được tuyển dụng theo yêu cầu công việc của mình đảm bảo đúng tiêu chuẩn và quy trình quy định.
Hai là, về nhân sự cơ sở giáo dục: Nhà nước quy định rõ vị trí việc làm, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của từng vị trí nhân sự trong hoạt động chuyên môn tại cơ sở giáo dục. Người đứng đầu cơ sở này thực hiện việc tuyển dụng nhân sự theo yêu cầu công việc của đơn vị mình gắn với tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ được quy định, đồng thời chịu trách nhiệm toàn bộ kết quả hoạt động chuyên môn và chất lượng nhân sự trước cơ quan quản lý nhà nước.
2.1.3.3. Nhóm nội dung quản lý tài chính:
Một là, Nhà nước quy định cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động GD&ĐT về học phí, kinh phí đóng góp, cơ chế, chính sách để thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục.
Hai là, giao cơ chế tự chủ tài chính đối với ngân sách cấp cho hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục địa phương.
Ba là, giao quyền tự chủ về tài chính được cấp và nguồn thu khác theo quy định cho cơ sở giáo dục trong hoạt động chuyên môn.
2.1.3.4. Nhóm nội dung về hoạt động chuyên môn:
Một là, giao quyền và trách nhiệm, tạo tính chủ động tự quyết, tự chịu trong toàn bộ hoạt động quản lý giáo dục cho cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước về giáo dục từ quy định khung nội dung, chương trình, kế hoạch giảng dạy, tiêu chuẩn đội ngũ đến việc kiểm định, đánh giá chất lượng giáo dục quốc gia và khu vực.
Hai là, giao cơ sở giáo dục tự chủ trong việc triển khai thực hiện nội dung, chương trình, kế hoạch giảng dạy, đánh giá chất lượng trên cơ sở căn cứ khung nội dung, chương trình, kế hoạch chung được nhà nước quy định.
2.2. Một số bất cập của PCQLNN đối với GDMN vùng đồng bằng sông Cửu Long qua điều tra, khảo sát
Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ, các địa phương đã thực hiện phân cấp quản lý giáo dục, góp phần thúc đẩy phát triển giáo dục mầm non, mở rộng quy mô, đa dạng các loại hình, tăng về chất lượng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các bậc cha mẹ có con ở độ tuổi nhà trẻ và mẫu giáo.
Phân cấp quản lý giáo dục đem lại quyền tự chủ và chịu trách nhiệm cho chính quyền địa phương, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục mầm non tạo điều kiện cho giáo dục mầm non phát triển. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện phân cấp quản lý giáo dục, các địa phương ở từng vùng miền gặp những khó khăn khác nhau, cụ thể:
Thứ nhất, trong phân cấp quản lý giáo dục, các văn bản vẫn chưa quy định thống nhất, nhiều địa phương Phòng tài chính chưa có sự phối hợp chặt chẽ với Phòng GD&ĐT nên việc cấp phát kinh phí không kịp thời, gây khó khăn cho các cơ sở giáo dục mầm non trong việc thực hiện các hoạt động giáo dục.
Thứ hai, về thực hiện chế độ, chính sách đối với giáo viên theo hợp đồng làm việc. Ở một số địa phương, nhiều giáo viên đã là biên chế, sau đó Phòng GD&ĐT ký hợp đồng làm việc không thời hạn mà không giải thích cụ thể tạo nên tâm lý không ổn định của giáo viên. Bên cạnh đó, một số giáo viên tham gia đào tạo cao đẳng, đại học cho đủ chuẩn nhưng Phòng GD&ĐT không hoặc chậm chuyển ngạch, bậc lương đúng ngành đào tạo gây sự bất bình trong đội ngũ giáo viên.
Thứ ba, theo quy định, địa phương dành tỷ lệ đầu tư ngân sách cho GDMN ít nhất 10% ngân sách giáo dục thường xuyên hàng năm. Tuy nhiên, theo báo cáo tổng kết ngành giáo dục năm 2015-2016 của các tỉnh ĐBSCL tỷ lệ chưa đồng đều ở các địa bàn trong tỉnh. Nhiều tỉnh, tỷ lệ ngân sách đầu tư rất cao từ 15-25 % do kế hoạch hàng năm ở địa phương. Một số địa phương trong năm có kế hoạch xây dựng trường chuẩn quốc gia hoặc xây dựng xã nông thôn mới sẽ đầu tư ngân sách tập trung cho giáo dục, ở địa bàn nào không có kế hoạch liên quan đến phát triển giáo dục thì ngân sách đầu tư thấp. Nếu đầu tư thấp thì các cơ sở giáo dục mầm non chỉ có thể trả lương cho công chức, giáo viên, không đủ kinh phí để mua sắm đồ chơi, thiết bị và các hoạt động nâng cao chất lượng giáo dục mầm non trong năm học đó, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục cũng như hiệu quả quản lý nhà nước đối với giáo dục mầm non ở địa phương.
Thứ tư, theo Luật viên chức, giáo viên mầm non hiện nay tuyển dụng bằng hình thức ký hợp đồng làm việc. Quyền ra quyết định tuyển dụng chi do UBND huyện hoặc Phòng GD&ĐT được ủy quyền quyết định, các trường mầm non không có tham gia vào quy trình tuyển dụng trong khi đó chất lượng chăm sóc-giáo dục trẻ do chính chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non của nhà trường trực tiếp quyết định. Điều này phần nào ảnh hưởng đến công tác quản lý nhân sự trong nhà trường mầm non, không chính thức kiểm tra yếu tố đầu vào nên trong quá trình sử dụng tất yếu sẽ gặp nhiều khó khăn.
Thứ năm, chức năng tài chính và nhân sự ở các trường mầm non thực hiện theo Nghị định Số: 16/2015/NĐ-CP ngày ngày 14 tháng 2 năm 2015 của Chính phủ Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, tuy nhiên việc thực hiện tự chủ này chưa triệt để ở các trường mầm non, cụ thể như sau:
Khoán quỹ tiền lương theo số biên chế được cấp có thẩm quyền giao và khoán quỹ tiền lương của số lao động hợp đồng không xác định thời hạn theo quy định của pháp luật được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Khoán chi hoạt động thường xuyên theo số biên chế được cấp có thẩm quyền giao và định mức phân bổ ngân sách nhà nước hiện hành để các trường tự chủ về biên chế và thực hiện nhiệm vụ.. Tuy nhiên, theo quy định tại Thông tư liên tịch Số: 06/2015/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 16 tháng 03 năm 2015 Quy định về danh mục khung vị trí việc làm và định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập Về định mức giáo viên: Ở những nơi bố trí đủ số trẻ tối đa theo nhóm trẻ hoặc lớp mẫu giáo sẽ được bố trí tối đa 2,5 giáo viên/nhóm trẻ; đối với lớp mẫu giáo học 2 buổi/ngày được bố trí tối đa 2,2 giáo viên/lớp; Đối với lớp mẫu giáo học 1 buổi/ngày được bố trí tối đa 1,2 giáo viên/lớp. Như vậy, số giáo viên bắt buộc tăng lên trong khi biên chế đã được duyệt cho ngành giáo dục ở địa phương là không thay đổi. Điều này gây khó khăn cho ngành giáo dục ở địa phương, nếu thực hiện đúng theo Thông tư 06 thì không đủ kinh phí trả lương, nếu thực hiện tự chủ bằng cách không tuyển dụng giáo viên thì không đúng theo quy định của ngành.
Đối với bậc học MN với những tính chất và đặc thù so với các bậc học khác, việc PCQL không có sự khác biệt nhiều so với các bậc học khác nên có một số bất cập: cơ quan quản lý cấp trên chưa thực sự chú trọng phân cấp cho các trường mầm non, chưa nghiên cứu xây dựng thể chế pháp lý phù hợp cho ngành mầm non, đặc biệt trình độ quản lý của cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu của PCQL cũng như việc giám sát và hướng dẫn của các cấp có thẩm quyền còn hạn chế nên không kiểm soát được các hoạt động của cơ sở khi phân cấp nên ôm đồm hoặc phân cấp nửa vời, không hỗ trợ cho cấp dưới thực hiện nhiệm vụ được phân cấp.
3. Kết luận
Phân cấp quản lý nhà nước vừa là nội dung vừa là phương thức để thực hiện công tác QLNN thuộc các ngành, lĩnh vực quản lý trong đó có QLNN về giáo dục, đối với bậc MN là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, việc thực hiện PCQL hợp lý, rõ ràng, khoa học sẽ điều kiện thuận lợi cho công tác QLNN và hoạt động chăm sóc nuôi dạy trẻ của bậc học này, tạo môi trường, cơ sở pháp lý thuận lợi để các tổ chức, cá nhân đầu tư nguồn lực nhằm phát triển GDMN, đa dạng hóa loại hình, sản phẩm giáo dục đáp ứng nhu cầu giáo dục của người dân và xã hội. Bên cạnh đó, cần có sự phối hợp giữa các cơ quan QLNN về giáo dục, xây dựng cơ chế quản lý thông suốt, rõ ràng, cụ thể và chặt chẽ nhằm phát huy sự sáng tạo, linh hoạt của cấp dưới và kiểm tra, giám sát của cấp trên. Để đạt được kết quả trong PCQL đối với GDMN đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước cũng như cán bộ quản lý ngành MN phải cố gắng làm hết trách nhiệm, đúng thẩm quyền, tuân thủ pháp luật, vượt qua những khó khăn, thách thức để đạt được chất lượng GDMN của vùng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập./.
Tài liệu tham khảo
-
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013), Kết luận Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI Ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Hà Nội.
-
Bộ Giáo dục Đào tạo - Bộ Nội vụ (2015), Thông tư liên tịch số 11/2015/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 29/5/2015 của Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Sở Giáo dục - Đào tạo thuộc ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng Giáo dục - Đào tạo thuộc ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Hà Nội.
-
Bộ Giáo dục Đào tạo (2015), Điều lệ Trường mầm non ban hành kèm theo văn bản hợp nhất số: 04/VBHN-BGDĐT; Quy chế tổ chức và hoạt động trường mầm non tư thục ban hành kèm theo Thông tư số: 13/2015/TT-BGDĐT, Hà Nội.
-
Nguyễn Minh Phương (2013), “Thực trạng phân cấp, phân quyền và vấn đề tự quản địa phương ở Việt Nam”, Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội vụ.
-
Quốc hội (2005,2009), Luật Giáo dục, Hà Nội.
-
Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
-
Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Vĩnh Long (2015), Báo cáo Hội nghị giao ban các Sở Giáo dục và Đào tạo khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Vĩnh Long.
-
Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Long An, Báo cáo Hội nghị giao ban các Sở Giáo dục và Đào tạo vùng đồng bằng sông Cửu Long lần thứ nhất, năm học 2015-2016 tại Long An.
-
Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Cần Thơ (2012) Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện Quyết định số 1033/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng ĐBSCL giai đoạn 2011-2015, Cần Thơ.
-
Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 711/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020, Hà Nội.
-
Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1033/QĐ-TTg, ngày 30/06/2011 của Thủ tướng Chính phủ, về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) giai đoạn 2011-2015.
-
Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 245/QĐ-TTg ngày 12 tháng 02 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, Hà Nội.
-
Vụ Giáo dục mầm non (Bộ Giáo dục và Đào tạo) (2016), Hội nghị tổng kết năm học 2015-2016 và triển khai nhiệm vụ giáo dục mầm non 2016-2017, Hà Nội.
ThS. Phạm Thị Tuyết Minh
Trường Cán bộ quản lý giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh